Bệnh co thắt tâm vị có đặc điểm nổi bật là rối loạn hoạt động của thực quản. Đoạn cuối của thực quản đổ vào dạ dày bị co thắt và hẹp lại, còn đoạn trên bị giãn to ra. Bệnh nhân có thể bị tử vong đột ngột do phản xạ tim mạch hay dây thần kinh X, do ngạt thở vì trào ngược thức ăn vào khí quản, do suy dinh dưỡng ở giai đoạn muộn.
Vì sao mắc bệnh co thắt tâm vị?
Hiện nay, người ta chưa xác định được nguyên nhân thực sự của bệnh co thắt tâm vị, nhưng biết đến nhiều yếu tố liên quan đến bệnh: tuổi mắc bệnh từ 18-40; nữ bị bệnh nhiều hơn nam; người có dạng thần kinh không cân bằng, dễ xúc cảm, nhất là người cường hệ phó giao cảm; người ăn nhiều gluxid, ít protit, thiếu vitamin nhóm B; người có thói quen ăn thức ăn quá nóng hay quá lạnh; mắc bệnh nhiễm khuẩn như: sốt phát ban, lao, giang mai…; nghiện rượu, thuốc lá, phơi nhiễm chất hoá học; rối loạn nội tiết, viêm dính quanh thực quản, loét tâm vị, giảm trương lực hoặc giảm nhu động cơ thực quản…
Bình thường sau khi nuốt, phần trên thực quản đóng lại gây phản xạ mở phần dưới, nhờ đó thức ăn đi theo nhu động của thực quản và trọng lượng của nó một cách nhịp nhàng xuống dưới. Dây thần kinh X kiểm soát việc đóng mở này, còn việc điều chỉnh trương lực cơ thực quản là do hệ giao cảm chi phối. Nếu có tổn thương thần kinh tại chỗ hoặc trung ương sẽ gây nên các rối loạn hoạt động thực quản, dẫn tới tình trạng phần dưới của thực quản không mở ra theo nhu động bình thường mà co thắt lại gây cản trở lưu thông của thức ăn đi xuống dạ dày.
Cách gì để phát hiện bệnh?
Bệnh co thắt tâm vị thời gian đầu thường tiến triển thầm lặng, triệu chứng nghèo nàn nên rất khó xác định lúc bệnh khởi phát. Hầu hết khi bệnh nhân đến khám thì thực quản thường đã giãn to. Bởi vậy muốn phát hiện bệnh cần nắm vững các triệu chứng sau đây: ở giai đoạn muộn bệnh nhân có tình trạng suy dinh dưỡng nặng; khó nuốt và nuốt nghẹn, mức độ phụ thuộc vào tính chất của thức ăn và từng bệnh nhân cụ thể.
Chẳng hạn, bệnh nhân uống được sữa nhưng uống nước lại khó, ăn được thức ăn lạnh, nhưng ăn thức ăn nóng khó hoặc ngược lại. Bệnh nhân thường có cảm giác nặng tức trong lồng ngực và đau vùng sau xương ức, nhất là sau khi ăn. Nôn oẹ do tình trạng thức ăn đọng lại trong đoạn thực quản bị giãn trên chỗ hẹp trào ngược ra miệng. Lúc đầu, nôn ọe xuất hiện ngay sau khi ăn, số lượng ít và chưa lên men, độ toan thấp, nhưng về sau do thực quản trên chỗ hẹp giãn rộng, sự cản trở lưu thông thức ăn qua thực quản tăng lên dẫn tới ọe xa sau bữa ăn, số lượng nhiều (200 – 300ml), chất nôn đã lên men, mùi chua nồng, thối, lẫn với thức ăn chưa tiêu và cả niêm dịch nhầy.
Vì vậy, nhiều bệnh nhân phải ngủ ở tư thế nửa nằm nửa ngồi vì khi chuyển từ tư thế ngồi sang nằm thường gây nôn ọe nhiều. Bệnh có thể biểu hiện với nhiều thể bệnh: Thể tiềm tàng, bệnh diễn biến thầm lặng trong nhiều năm, khi phát hiện ra thì thực quản đã giãn rất to. Thể với triệu chứng của dạ dày, có đau vùng thượng vị, có cảm giác đầy hơi. Thể với triệu chứng của tim như đau tức ngực, khó thở, đánh trống ngực, đau nhói vùng trước tim. Thể tiến triển theo từng đợt: bệnh nhân có những đợt bệnh nặng, khó uốt, nôn ọe, hết đợt thì bệnh nhân sinh hoạt gần như bình thường. Thể liệt: thực quản giãn rất to, hầu như không có nhu động và không có nôn ọe
Chụp Xquang có thể thấy mất hình túi hơi dạ dày, phần dưới thực quản bị chít hẹp trong khi phần trên bị giãn to; thấy đoạn hẹp thực quản ngắn và sát ngay trên cơ hoành, phần trên thực quản giãn rất to và gấp khúc như hình bít tất, chiếm 70%; hoặc thấy đoạn hẹp thực quản dài và phần trên chỗ hẹp giãn vừa phải có hình như củ cải, chiếm khoảng 30%. Soi thực quản thấy tâm vị đóng kín, niêm mạc bị viêm, phù nề, sung huyết, có nhiều vết loét. Chụp thực quản cắt lớp vi tính thấy rõ tổn thương từng đoạn.
Bệnh cần phân biệt với các bệnh: đau tim, u trung thất, viêm loét dạ dày, hẹp môn vị, ung thư dạ dày, ung thư thực quản.
Biến chứng
Bệnh không được điều trị kịp thời, có thể dẫn đến các biến chứng: viêm loét thực quản; sẹo xơ gây chít hẹp thực quản; do đoạn thực quản giãn to có thể chèn ép khí quản, tĩnh mạch, tim; viêm phổi, áp-xe phổi do trào ngược thức ăn; ung thư hoá tại vùng viêm mạn tính; suy dinh dưỡng ở giai đoạn cuối.
Chữa trị và phòng bệnh thế nào?
Bệnh nhân cần ăn thức ăn mềm, lỏng, dễ tiêu, nuốt từ từ. Dùng thuốc điều trị triệu chứng như: atropin, nitrit amyl…để mở cơ tâm vị; thuốc trấn tĩnh, dịu thần kinh để điều hoà các rối loạn giao cảm, các thuốc chống viêm và giảm xuất tiết niêm mạc thực quản. Rửa thực quản hằng ngày sau khi ăn 2-4 giờ và trước khi ngủ để tránh hiện tượng đánh trống ngực và khó thở khi nằm. Nong và thông thực quản để tránh ứ đọng thức ăn ở thực quản. Phẫu thuật làm giãn đoạn thực quản hẹp; tạo lỗ thông thực quản giãn và dạ dày; nối thực quản dạ dày…
Phòng bệnh cần giảm ăn gluxid, ăn tăng protid và thức ăn chứa nhiều vitamin nhóm B như thịt, ngũ cốc, hoa quả chín. Không nên ăn thức ăn quá nóng hay quá lạnh. Điều trị triệt để các bệnh nhiễm khuẩn như: lao, giang mai, mụn nhọt, áp-xe… Bỏ hút thuốc lá, thuốc lào, bỏ uống rượu.
Theo Phunutoday